VẾT BỎNG

Vết bỏng do nhiệt là một tổn thương rất nghiêm trọng có thể dẫn đến tổn thương mô mềm cũng như sự thay đổi về trao đổi chất ảnh hưởng đến sự cân

bằng dịch. Trong khi phần lớn vết bỏng là tổn thương nhỏ và không cần đưa đến bệnh viện thì các vết bỏng rộng lại gây nguy hiểm đến tính mạng. Tuổi tác cũng ảnh hưởng đến đầu ra; những người quá trẻ và những người cao tuổi đều không chịu đựng được các vết bỏng. Chấn thương do bỏng thường kéo theo các tổn thương liên quan khác.

Bắt đầu điều trị bằng thông khí và hồi sức bằng dịch truyền. Sử dụng lượng dung dịch muối hoặc Ringer lactate theo công thức 9’s. Hoàn tất đánh giá kì một và kì hai rồi sau đó bắt đầu điều trị vết thương. ( xem Phụ lục: Cẩm nang chăm sóc chấn thương ban đầu).

Nhiệt năng làm cho lớp biểu bì,hạ bì và các mô dưới da bị đông và chết ở các mức độ khác nhau. Các mô còn sống ở ngoại biên vết bỏng có thể được cứu nếu sự tười máu tới mô được duy trì và nhiễm trùng được kiểm soát.

Phân loại các vết bỏng sâu

Độ sâu của vết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ của các nguồn nhiệt và khoảng thời gian bị bỏng. Bỏng có thể được phân loại như vết bỏng bề mặt, da, hoặc vết bỏng nặng. Những vết bỏng nhẹ thông thường ở bề mặt; chất carbon từ khói có thể là nguyên nhân gây xém cháy bề mặt. Cháy nhà, cháy quần áo, cháy dầu mỡ, bỏng hơi nước và các chất hóa học thường xuyến gây ra những vết bỏng nặng và bỏng da; trong khi kim loại nóng chảy, nguồn điện và các máy nén nóng thông thường là nguyên nhân gây ra bỏng nặng.

Bỏng độ 1 (bề mặt)

Các mô bị phá hủy được giới hạn ở các lớp biểu bì và lớp trên của da. Các đầu dây thần kinh ở da trở nên nhạy cảm và bề mặt vết bỏng đau. Các vết bỏng này thường bị phỏng giộp. Nếu vết bỏng không bị nhiễm bẩn thì sẽ lên da non sau 5 đến 7 ngày.

Bỏng độ 2 (bỏng da).

Lớp thấp nhất của lớp biểu bì, lớp phôi nhận sự hỗ trợ và nuôi dưỡng từ da. Phần của lớp phôi vẫn còn sống ở trong da và có thể tái phủ đầy biểu mô vết thương. Khi vết bỏng sâu hơn thâm nhập vào trong da thì số lượng biểu bì còn sống trở nên ít hơn. Một lượng sẹo trên da tương đương với mật độ của các biểu bì còn sống sót. Các vết bỏng sâu có thể lâu lành hơn, kéo dài hơn 21 ngày và thường để lại sẹo, do đó nên thực hiện việc cấy ghép da . Bởi các mạch máu và đầu dây thần kinh trên da bị phá hủy, phần da bỏng trở nên xám và ít đau hơn bỏng bề mặt.

Bỏng độ 3 (bỏng nặng)

Bỏng nặng phá hủy tất cả các biểu bì và cấu trúc da. Protein đông tụ làm bề mặt da có màu trắng và dẫn đến mất khả năng lưu thông và cảm giác. Sau khi tạo thành vảy chết, quá trình lên da non rất chậm từ rìa vết thương. Lúc này việc cấy da là cần thiết trừ khi vùng bị thương rất nhỏ. Việc để lại vết sẹo xấu là không trách khỏi .

Bỏng hỗn hợp

Các vết bỏng thường có độ nông, sâu hỗn hợp. ước tính độ sâu trung bình căn cứ vào bề mặt vùng da bị bỏng và cảm giác. Sự hồi phục tuỳ thuộc vào độ bỏng hai hay ba và việc điều trị tại chỗ vết bỏng tại các vị trí đặc thù.

Chăm sóc vết thương

Sơ cứu

Nếu bệnh nhân đến cơ sở y tế không có các phương tiện sơ cứu, cần làm ướt vết bỏng bằng nước lạnh để tránh bị phá hủy thêm và lột bỏ tất cả quần áo bị cháy. Nếu vết bỏng hẹp, ngâm vào nước lạnh trong 30 phút để giảm đau, giảm phù nề và giảm thiểu sự phá hủy mô.

Nếu vết bỏng rộng, sau khi dội nước lạnh, cuốn khăn sạch quanh chỗ bị bỏng (hoặc cuốn cả người bệnh nhân) để tránh mất nhiệt toàn thân và giảm thân nhiệt. Sự giảm thân nhiệt đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ em. 6 giờ đầu sau chấn thương là rất nguy hiểm; chuyển bệnh nhân bỏng nặng tới bệnh viện càng sớm càng tốt.

Điều trị ban đầu

Ban đầu, tất cả các vết bỏng đều vô trùng. Tập trung điều trị nhanh và tránh nhiễm trùng. Nên cho tiêm phòng uốn ván trong tất cả các trường hợp.

Ngoại trừ các vết bỏng nhỏ, cắt bỏ bóng giộp hoại tử. Trước tiên, cắt bớt phần mô chết dính trong vài ngày đầu. Sau khi cắt bỏ hoại tử, nhẹ nhàng làm sạch vết bỏng với 0,25% (2,5g/lit) dung dịch chlorhexidine, 0,1% (1g/lit) dung dịch cetrimide, hoặc nước đã khử trùng. Không sử dụng dung dịch chứa cồn. Rửa nhẹ nhàng loại bỏ các mô yếu dính. Bôi một lớp kem mỏng chất kháng sinh (sulfadiazine bạc). Băng vết bỏng với gạc mỡ và gạc khô đủ dày để tránh rò rỉ ra lớp bên ngoài.

Điều trị hàng ngày

Hàng ngày, thay quần áo chố bỏng (có thể 2lần/ngày) hoặc thường xuyên nếu cần thiết để tránh rò rỉ ra quần áo. Với mỗi lần thay đồ, loại bỏ tất cả mô bong ra. Kiểm tra vết thương, nếu đổi màu hoặc chảy máu thì đó là dấu hiệu của nhiễm trùng. Sốt không phải là dấu hiệu đầy đủ tuy rằng nó có thể vẫn còn dai dẳng đến khi vết thương lành. Dùng kháng sinh toàn thân trong trường hợp vết thương nhiễm liên cầu khuẩn hoặc nhiễm trùng máu. Sự nhiễm trùng Pseudomonas aeruginosa thường xuyên dẫn đến nhiễm trùng máu và tử vong. Điều trị với aminoglycosides toàn thân.

Dùng kháng sinh tại chỗ hàng ngày. Nitrate bạc (0,5% ) là rẻ nhất, cuốn băng hút giữ nhưng không thấm vào vảy. Nó làm tan chất điện phân và làm biến màu vùng xung quanh. Sử dụng sulfadiazine bạc (1% hỗn hợp thuốc mỡ) ở một lớp băng. Hạn chế thấm vào vảy da và có thể gây giảm bạch cầu tế bào. Mafenide acetate (11% trong hỗn hợp thuốc mỡ) được sử dụng mà không cần băng. Nó thấm vào vảy da nhưng lại gây nhiễm axit. Xen kẽ những tác nhân này là một chiến lược phù hợp.

Điều trị bàn tay bị bỏng với việc chăm sóc đặc biệt giúp giữ gìn chức năng của bàn tay. Bôi sulfadiazine bạc và đeo găng tay polythene lỏng hoặc túi bó chặt cổ tay bằng băng kếp. Nâng cao tay trong 48 giờ đầu, sau đó yêu cầu bệnh nhân tập các bài tập tay. Thay găng, rửa tay ít nhất ngày một lần, kiểm tra chỗ bỏng và bôi sulfadiazine bạc, đeo găng tay. Nếu cần thiết cấy da, cân nhắc trong việc chọn chuyên gia điều trị sau khi mô liên kết khỏe mạnh xuất hiện

Giai đoạn lên da non

Độ sâu của bỏng và bề mặt liên quan đến quá trình lên da non. Không có nhiễm trùng, bỏng bề ngoài lành nhanh chóng. Ghép một miếng da lên phần da bị bỏng nặng sau khi cắt lọc vết thương.

Lên kế hoạch chăm sóc lâu dài cho bệnh nhân. Các vết sẹo ban đầu sẽ có mầu đỏ, lan rộng và rất khó chịu. Chúng thường trở nên phì đại và hình thành sẹo lồi. Chúng sẽ trơ nên phẳng, mềm và mờ dần với thời gian nhưng quá trình là không thể đoán trước được và có thể mất đến 2 năm.

  • trẻ em, các vết sẹo không thể lan rộng bắt kịp sự phát triển của cơ thê nên có thể dẫn đến sự co cứng. Cần sớm can thiệp bằng phẫu thuật trước khi nó ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

Sẹo do bỏng trên mặt dẫn đến dị dạng về mặt thẩm mĩ, tật lộn mi mắt và co cứng môi.Tật lộn mi mắt có thể dẫn đến viêm giác mạc và mù loà, còn dị dạng môi ảnh hưởng đến ăn uống và chăm sóc miệng. Cần có sự chăm sóc chuyên biệt cho các bệnh nhân này vì cấy ghép da thường không mang lại hiệu quả.

Dinh dưỡng

Yêu cầu về năng lượng và protein của bệnh nhân sẽ rất cao do sự di hoá của chấn thương, mất nhiệt, nhiễm trùng và nhu cầu tái tạo mô. Nếu cần thiết, cho bệnh nhân ăn qua ống mũi-dạ dày để đảm bảo sự hấp thu năng lượng ( lên đến 6000kcal mỗi ngày). Thiếu máu và suy dinh dưỡng sẽ làm vết bỏng lâu lành và làm hư hại các miếng da được cấy ghép. Trứng và dầu lạc rất tốt và lại dễ mua ngay tại địa phương.

Bình luận về bài viết này