Ngạt khi đẻ là tình trạng rất nặng ở trẻ số sinh, trẻ bị ngạt có nhiều nguy cơ dẫn đến tử vong, nếu cứu được củng để lại những di tật rất nặng nề.
| Vì vậy việc phòng ngừa để tránh nguy cơ gây ngạt cho trẻ sơ sinh là điều rất cần thiết.
BỆNH NGUYÊN
| Ngạt xảy ra làm thiếu dưỡng khí ở não, có nhiều nguyên nhân gây ngạt khi đẻ ở trẻ so sinh,
1. Những nguyên nhân gây trở ngại cho việc đẻ
- Dây nhau quấn cổ.
- Ngôi ngược, ngôi ngang.
- Mẹ có khung chậu hẹp, chiều cao thấp (từ 1,4 m trở xuống).
- Mẹ mổ đẻ ở những lần đẻ trước.
2. Những nguyên nhân gây nhiễm khuẩn của mẹ và con - Nhiễm khuẩn trong bào thai do vi khuẩn hoặc virus.
- Mẹ chuyển dạ lâu, ối vỡ sớm 24 giờ, nước ối bẩn.
3. Các nguyên nhân khác - Trẻ hít phải nước ối.
• Các dị tật ở tim, phổi, não của trẻ sơ sinh. - Các nguyên nhân gây trở ngại tuần hoàn rau thai như ép dây rốn, nhau bong non, suy nhau thai, cơn co tử cung qúa dày, vv.
- Mẹ dùng các thuốc gây mê.
- Các nguyên nhân không rõ.
NHỮNG DẤU HIỆU NGẠT THAI NHI
| Nước ối nhiễm phân su, – Thay đổi nhịp tim thai (nhịp chậm). Bình thường nhịp tim thai 120
- 160 lần/phút. Trong cơn co tử cung, tim thai chậm hơn, nhưng sau con co nhịp tim trở về bình thường. Nếu trong thời kì chuyển dạ, tim thai chậm dưới 100 lần/phút mà đã được xử lí cấp cứu, nhịp tim không tăng lên thì cần có chỉ định lấy thai ra sớm để tránh bị ngạt thai nhi (đếm nhịp tim thai sau cơn co tử cung).
TRIỆU CHỨNG
• Không khóc ngay sau đẻ hoặc khóc rất bé, rên è è.
• Tím tái ở các mức độ khác nhau:
Tím đầu chi. Tím quanh môi.
Tìm toàn thân.
Li bì, đáp ứng yếu với kích thích hoặc không đáp ứng trong trường
• hợp nặng.
Nhiệt độ có thể giảm.
• Tim đập chậm, yếu.
Phổi nghe rì rào phế nang yếu. Nếu trẻ hít nước ối có thể nghe | thấy tiếng ran ẩm nhỏ hạt.
Ngạt nặng có thể ảnh hưởng xấu đến nhiều bộ phận trong cơ thể, đặc | biệt là tim, phổi, não, thận.

Đánh giá theo bảng Apgar khi ra đời, sau 1 phút, sau 5 phút, sau 10 phút.
Từ 0-3 điểm là ngạt rất nặng.
Có thể dùng Bảng Sigtuna để đánh giá tình hình ngạt một cách đơn giản hơn.

Đánh giá theo ảng Apgar lúc trẻ ra đời, sau 5 phút, sau 10 phút. Hoặc có thể đánh giá lúc trẻ ra đời, lúc cắt rốn, lúc rau bong (nếu không có đồng hồ).
ĐIỀU TRỊ CHO TRẺ KHI RA ĐỜI BỊ NGẠT
1. Tư thế
Ngay sau khi ra đời, phải đặt trẻ ở tư thế dẫn lưu, nằm sấp, đầu thấp, mặt nghiêng về một bên. Thông khí
Nên chú ý hút nhớt càng sớm càng tốt trước khi có nhịp thở đầu tiên. hút sạch nhớt họng hầu, mũi, miệng. Hút bằng máy là tốt nhất, với áp lực từ 50 – 100cm H2O, Nếu không có máy có thể hút bằng bơm tiêm. Ông hút phải
mềm để tránh làm sây sát niêm mạc mũi miệng.
Sau khi làm thông đường hô hấp, nếu trẻ đã hồng hào vẫn cần phải để tại phòng cấp cứu theo dõi tiếp trong 24 giờ sau đẻ.
Nếu trẻ ngừng thờ phải hô hấp hỗ trợ. .
– Thông khí miệng-miệng: Thổi vào miệng bệnh nhân để đưa khí vào phổi. Cần thôi nhịp nhàng. Phương pháp này chỉ làm khi không có phương tiện hô hấp hỗ trợ. Phương pháp này tốn sức, khó theo dõi và dễ bị lây chéo.
- Thông khí qua mặt nạ.
- Thông khí qua nội khí quản.
- Thở máy hỗ trợ.
- Cung cấp ôxy cần liên tục cho đến khi trẻ tự thở được, không tím tái, nhịp thở bình thường 40 – 60 lần/phút
- Ů ấm
. Trẻ cần đưỢc ủ ấm ngay sau đẻ (khăn quấn cho trẻ cần được sấy ấm trước khi dùng). Không khí trong phòng cần được ấm, nhất là về mùa đông (dùng lò sưởi). - Thuốc
Glucoza 10%, 10-15ml/kg truyền tĩnh mạch, nếu cho nhiều hơn 60ml/kg phải dùng lợi tiểu. Bicarbonat nat 5%, 5ml/kg tiêm tĩnh mạch, hòa cùng Glucoza 10%. Nếu đo được khí trong máu thì bù theo công thức:

DỰ PHÒNG
Theo dõi sát sản phụ lúc chuyển dạ bằng cách nghe tim thai (sau cơn co tử cung) để kịp thời phát hiện thai suy và có hướng xử lí.
• Có phương tiện và thuốc điều trị tại chỗ.
• Phòng bệnh cho người mẹ để tránh đẻ non, nhiễm khuẩn sơ sinh. | Tất cả trẻ sơ sinh sau đó được đánh giá là bình thường cũng phải theo dõi trong 24 giờ để kịp thời phát hiện những diễn biến của bệnh, theo dõi sát nhịp tim, nhịp thở.
