NUÔI TRẺ DƯỚI 3 TUỔI

GS. PTS. Nguyễn Thu Nhạn
| Thầy thuốc nhi khoa cần am hiểu và nắm vững những kiến thức nuôi trẻ, nhất là nuôi trẻ dưới 3 tuổi, những kiến thức này cần được hướng dẫn, truyền đạt cho người mẹ và những thành viên khác trong gia đình.

Cần có sự hợp tác tốt giữa gia đình, nhất là người mẹ với thầy thuốc trong chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ.
Trẻ có được nuôi dưỡng tốt mới phát triển và lớn lên tốt. Nhờ có sự nuôi dưỡng đúng đắn sẽ đề phòng được nhiều bệnh như suy dinh dưỡng, còi xương, bệnh thiếu các sinh tố A, B, C, D, vv. Nếu trẻ đưỢc nuôi dưỡng tốt, cũng có thể đề phòng được phần lớn các bệnh nhiễm khuẩn như ta chảy, viêm phổi, các bệnh do virus, bại liệt. NUÔI TRẺ TRONG NĂM ĐẦU Nhu cầu calo với trẻ trong năm đầu:
50-55 KCal/kg/ngày với trẻ sơ sinh. 60-120 KCal/kg/ngày với trẻ 2-5 tháng.
100 KCal/kg/ngày với trẻ 6-12 tháng. Nhu cầu nước với trẻ trong năm đầu
Trẻ còn bú dưới 1 tuổi có nhu cầu nước rất lớn.
Trong 6 tháng đầu cần 130-190 ml/kg/ngày, nhu cầu này càng tăng lên tùy theo thời tiết nóng bức. Số bữa ăn trong 24 giờ:
Tuần lễ đầu:
10-12 bữa 1 tuần – 1 tháng: 8 bữa 2-5 tháng:
6 bữa 6-12 tháng:
5 bữa Lượng trung bình được hấp thụ trong mỗi bữa:
1-2 tuần đầu:
55-80g 3 tuần-2 tháng: 110-140g 2-3 tháng:
140-170g 3-4 tháng:
170-195g. 5-12 tháng:
190-trên 200g. Thức ăn của trẻ:
Tuổi chu sinh: Sữa non. Từ tuần thứ 2 – 4 tháng: Sữa mẹ.
Từ tháng thứ 5 – 12 tháng: Sữa mẹ + ăn sạm. Cách thức cho bú và cho ăn sam:
Trong tuần đầu:

Cho bú ngay sau khi cắt rốn. Thức ăn duy nhất là sữa non trong 5 ngày đầu.
Trẻ đủ cân, bình thường có thể bú ngay, 8-10 bữa/ngày, trừ ban đêm sau 12 giờ nếu trẻ không khóc đòi ăn; Nếu trẻ đói, khóc đòi ăn cần cho trẻ bú cả ban đêm.
| Lượng sữa non của mẹ lúc này có khoảng 200ml, đủ cung cấp cho trẻ, về sau sẽ tăng dần.
| Trường hợp trẻ yếu, thiếu cân, không biết bú thì vắt sữa mẹ, đổ bằng thìa hoặc cho trẻ ăn bằng ống thông dạ dày.
Từ tuần thứ hai đến tròn 4 tháng: .
Cho bú sữa mẹ, trong thời gian này chỉ có sữa mẹ mới bảo đảm đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ. Nếu đủ sữa mẹ, trọng lượng của trẻ sẽ tăng gấp hai lần so với khi đẻ, trong 4 tháng đầu, chú ý, chỉ cần bú mẹ, không cho thêm thức ăn uống gì nữa.
Khi mẹ không có sữa, phải thay bằng sữa động vật như sữa bò, dê, trâu hoặc sữa đậu nành. Cho trẻ bú sữa tươi hoặc sữa bột, không nên cho loại sữa đặc vì thiếu chất.
Cho bú theo nhu cầu của trẻ. Cứ 2,5 – 3 giờ 1 lần. Có thể bú cả ban đêm nếu trẻ đói đòi bú.
Từ tháng thứ 52 tháng: + Ngoài sữa mẹ cần cho trẻ ăn sam để bổ sung thêm các chất đạm,
mỡ, khoáng, đường.
• Thành phần các chất ăn sam cần giống bữa ăn của người lớn: đạm,
mỡ, đường, muối khoáng, các sinh tố. + Cho ăn theo cách từ từ để bộ máy tiêu hóa của trẻ thích nghi dần.
Tháng thứ 5-6: lúc đầu cho ăn ít lòng đỏ trứng gà, sau tăng dần; cho dầu ăn và rau nghiền, hoa qua như chuối, cà chua, cam, chanh.
Từ tháng thứ 7-8: Cho thêm các thức ăn đạm động, thực vật khác như thịt, cá, tôm, đậu, lạc, vừng.
Từ tháng thứ 9 có thể cho đầy đủ các thức ăn của người lớn. cần nhớ bữa ăn nào của trẻ cũng phải có đủ đạm, dầu mỡ, rau qủa, chất bột, ngũ cốc.

  • Số lượng bữa ăn sam: 5-6 tháng: Một bữa bột + bú mẹ 7-8 tháng: Hai bữa bột + bú mẹ 9-12 tháng: Ba bữa bột + bú mẹ

Những điều người mẹ cần chú ý khi nuôi con và cho con bú.
Mẹ nên ăn đủ chất và lượng nhiều hơn so với khi không cho con bú.

Cần thoải mái tinh thần, không lo âu, cáu gắt sẽ ảnh hưởng đến tiết sữa. Cần chăm sóc vệ sinh đầu vú, vệ sinh thân thể, lao động, nghỉ ngơi điêu độ. Chú ý nếu người mẹ bị tịt đầu vú, cần kéo và về đầu vú từ
khi có thai.
• Không nên hút thuốc, uống rượu, và dùng một số kháng sinh như
tetracyclin, hormon steroid vì sẽ có hại cho trẻ. Động tác ngồi cho bú cần dễ chịu, thoải mái. Sữa mẹ ít, cần tăng số lần bú để kích thích tiết sữa nhiều hơn. Ăn uống tốt hơn để tạo nguồn sữa. Trước khi cho bú, cần rửa qua đầu vú, vắt bỏ vài giọt sữa đầu, cho trẻ ngậm sâu hết quầng vú. Dùng ngón tay đỡ vú để trẻ mút vú được nhẹ nhàng. Cho con bú kiệt một bên vú rồi mới bú sang vú kia, để sữa lần sau sẽ tiết ra nhiều hơn và trẻ được bú lượng sữa
mỏi tốt hơn là bú SỐ sữa cũ còn đọng lại ở vú.

NUÔI TRẺ Ở NĂM THỨ HAI
Không nên cai sữa lúc 12 tháng, tốt nhất là chỉ cai sau 18 – 24 tháng. Ở nông thôn, nếu người mẹ khỏe mạnh, noi lao động gần | nhà, không cản trở việc bà mẹ cho con bú thì cho trẻ bú đến 3 tuổi.
• Trẻ trên 1 năm cần ăn 4 bữa một ngày, không kể bú thêm sữa mẹ.
• Thức ăn tốt nhất là dạng cháo thập cẩm, gồm nhiều thứ như gạo

tẻ, gạo nếp, các loại ngũ cốc, thịt, cá, trứng, tôm và các loại rau đâu, dầu mỡ. © Cần cho trẻ ăn các loại hoa qua để cung cấp thường xuyên các loại sinh tố cho trẻ. Không nên quên cho trẻ ăn các loại dầu mỏ vì là chất cung cấp năng lượng cao nhất cho cơ thể, vì trẻ rất cần năng lượng để phát
triển. © Bữa ăn của trẻ cần bảo đảm vệ sinh, vì đây là lứa tuổi dễ bị nhất các rối loạn tiêu hóa, ta chảy, suy dinh dưỡng.

NUÔI TRẺ TỪ HÁI ĐẾN BA TUỔI
Ở lứa tuổi này, nhiều trẻ đã có thể thích nghi được bữa ăn của người lớn, nhưng thực tế bộ máy tiêu hóa của trẻ vẫn chưa thể tiêu thụ được các thức ăn rắn, do đó tốt nhất là nấu riêng cơm của trẻ, mềm và nát hon bình thường. Thức ăn nấu theo dạng ninh nhừ. Trẻ cần nhiều nước, nên cho trẻ ăn canh, không nên ăn các món khó tiêu, khó hấp thụ, gây ta chảy và dinh dưỡng thiếu hụt.

Trong lứa tuổi này trẻ vẫn có nhu cầu mỗi ngày 200-300ml sữa, nên cho trẻ vào buổi sáng và tối một lượng sữa tương đương bằng sữa bò hay sữa đậu nành, nếu mẹ không còn nữa.
Khi trẻ đã lên 3 thì nên cho ăn chung với gia đình.
Bảng trên cho thấy rõ sự khác biệt và ưu việt của sữa mẹ hon sữa bò, thích hợp với trẻ hơn ở những điểm sau:
• Sữa mẹ cho năng lượng cao hơn sữa bò. © Protein trong sữa bò cao gấp 3 lần sữa mẹ là không thích hợp với
trẻ, nhất là với trẻ sơ sinh. © Thành phần nước sữa ở sữa mẹ cao hơn sữa bò nên dễ tiêu vì nước làm dễ hấp thu hơn casein.
• Chất béo trong sữa mẹ cao hơn trong sữa bò.
• Lactoza ở sữa mẹ cao gấp hai lần sữa bò nên trẻ bú mẹ tăng trọng
lượng nhanh hơn trẻ bú sữa bò, tổ chức não phát triển tốt hơn.
Retinol ở sữa mẹ cao gấp hai lần trong sữa bò nên trẻ bú mẹ
không bao giờ bị thiếu vitamin A. © Vitamin D trong sữa mẹ chủ yếu ở dạng hòa tan trong nưỐC, dễ hấp thu, nên trẻ không bị còi xương. + Lượng acid folic trong sữa bò và sữa mẹ ngang nhau, sắt và đồng trong sữa bò cao hơn trong sữa mẹ. Riboflavin, Vitamin B12 cũng vậy, qúa nhu cầu cần thiết cho trẻ.
• Vitamin Cở sữa mẹ có hàm lượng gấp hai lần sữa bò.
Ngoài ra, trong sữa mẹ còn có các kháng thể miễn dịch IgA để phòng bệnh cho người, các thực bào, bạch cầu kháng khuẩn, interferon kháng với virus. Những yếu tố này chỉ có ở sữa mẹ để bảo vệ và tăng sức đề kháng nhiễm khuẩn cho trẻ, vì vậy trẻ bú mẹ sẽ không bị la chảy, ít bị viêm phổi, không bị thiếu máu và thiếu vitamin A, không bị còi xương, dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tăng trọng tốt hơn so với trẻ ăn sữa bò.

ĐẶC ĐIỂM VÀ THÀNH PHẦN SỮA NON (COLOSTRUM)

  • Chỉ có trong tuần lễ đầu. – Có ngay lập tức sau khi sinh. – Màu nhạt, trong và quánh, đặc hơn sữa chín. – Thành phần protein chiếm 10%, trong sữa chín chỉ chiếm 1%.
  • Chất béo và đường ít hơn trong sữa chín nên màu không vàng và vị nhạt hơn.
  • Lượng IgA cao gấp một nghìn lần trong sữa thường. – Lượng lactoferrin cao hơn trong sữa chín nhiều lần.
  • Có 4000 bạch cầu/1 ml sữa để bảo vệ cho trẻ chống các vi khuẩn đường ruột.
  • Lượng vitamin A và muối trong sữa ở những tuần lễ đầu cao hơn về
    sau.
    | Thành phần trên cho thấy sữa non rất qúy với trẻ trong thời kì chu sinh (1 tuần sau khi sinh). Cần cho trẻ bú ngay sữa non mà không nên vắt bỏ.
    BIỂU ĐỒ CÂN NẶNG GIÁM SÁT ĐỀ PHÒNG

Bình luận về bài viết này