VIÊM TẾ BÀO VÀ ÁP-XE

NHỮNG ĐIỂM MẤU CHỐT:

 Nếu không thành công  trong việc điều trị nhiễm trùng thì có thể là do hiện tượng kháng thuốc kháng sinh hoặc sự hình thành ổ áp-xe  Nếu xác định đã hình thành ổ áp-xe, phải dẫn lưu nó bằng vết rạch phẫu thuật

 Dẫn lưu phẫu thuật phù hợp yêu cầu gây mê để đảm bảo rằng tất cả các phần của ổ áp-xe đểu được bộc lộ.

NGUYÊN TẮC CHUNG

Viêm tế bào và viêm mạch bạch huyết

Viêm tế bào là nhiễm trùng bề mặt lan rộng trên da hoặc các mô dưới da và thường kéo theo nó là các vết rách và vết thương cần phẫu thuật.

Vi sinh vật gây bệnh thường gặp nhất là streptococci mẫn cảm với penicillin. Viêm tế bào được đặc trưng bởi tình trạng viêm (sưng, nóng, đỏ, đau). Ranh giới giữ vùng da bị viêm và vùng da không bị viêm thường khó phân biệt và sự nhiễm bệnh toàn thân được đặc trưng bởi sốt, ớn lạnh, khó chịu và nhiễm độc đôi khi cũng xuất hiện.

Viêm mạch bạch huyết là hiện tượng viêm kéo dài dọc theo các mạch bạch huyết ở các mô dưới da. Điều trị viêm tế bào và viêm mạch bạch huyết bằng kháng sinh. Nếu không thành công có thể dẫn đến việc hình thành áp-xe và phải cần đến dẫn lưu phẫu thuật.

Áp-xe

Điều trị áp-xe bằng cách rạch và dẫn lưu để loại bỏ lượng mủ tồn đọng. Chẩn đoán áp –xe thông qua các dấu hiệu như: rất mềm và đau, nóng tại chỗ, sưng và da bị căng và bóng. Khi có sự thay đổi bất thường thì đó là một dấu hiệu đáng tin cậy mặc dù thiếu nó cũng không ảnh hưởng gì đến áp xe sâu hay áp xe ở các mô do các xơ tạo thành. Các mô này bao gồm ngực, vùng hậu môn và đầu ngón tay.Cần nghi ngờ những cơn đau nhói hoặc những cơn đau ảnh hưởng đến giấc ngủ.

Kĩ thuật

1. Nếu nghi ngờ chẩn đoán về áp-xe,

xác định xem có mủ hay không bằng cách dùng kim hút. Khử trùng cho da, gây mê thích hợp. Thực hiện việc hút mủ, sử dụng kim cơ 18 hoặc lớn hơn để xác định nơi trú của mủ (Hình 5.28). Rạch một đường tại điểm thích hợp nhất của ổ áp-xe. Thực hiện một đường rạch để tạo ra một đường dẫn lưu thoải mái và hoàn thiện. Nếu đường rạch quá nhỏ sẽ dẫn đến sự phát sinh lại của áp-xe.

  • Dùng hai đầu của kẹp động mạch đưa vào ổ áp xe để mở các miệng của nó (Hình 5.29). Mở ổ áp-xe bằng một ngón tay để phá toàn bộ vách ngăn (Hình
  1. 30)
  1. Mở rộng vết rạch nếu cần thiết để hoàn tất việc dẫn lưu (Hình 5.31), nhưng không được mở các mô lành.
  1. Dùng kháng sinh cho viêm tế bào da, sốt hoặc nếu ổ áp-xe ở bàn tay, tai hay họng.
  1. Rửa ổ áp xe bằng dung dịch muối, dẫn lưu hoặc để mở. Mục đích là để làm cho các mép vết thương không đóng lại để làm liền từ dưới lên trên. Để thực hiện dẫn lưu, đặt một ống dẫn lưu bằng cao su latex vào sâu trong ổ. Điều chỉnh và giữ để ống chạm đáy vết thương bằng cách dùng chỉ và để nguyên như thế cho đến khi dẫn lưu hoàn tất.
  1. Một sự lựa chọn khác là để ổ mở, đặt vài lớp gạc thấm dung dịch muối hoạc gạc mỡ vào trong ổ, để một đầu thò ra phía ngoài vết thương. Kiểm soát chảy máu.

CÁC VÙNG ĐẶC BIỆT

Viêm tế bào trên mặt

Viêm tế bào do vết thương trên mặt mang theo nguy cơ của chứng nghẽn mạch do rò khoang. Khi có dấu hiệu tăng phù nề trên mặt phải cho bệnh nhân điều trị bằng kháng sinh. Giữ bệnh nhân ở lại bệnh viện nếu cần. Giải thích cho bệnh nhân không được nặn hay véo ổ nhiễm trùng trên mặt, kể cả khi nó còn nhỏ. Để tránh chứng nghẽn mạch do rò khoang cho sử dụng heparin bằng cách truyền tĩnh mạch liên tục.

Nhiễm trùng mắt

Viêm toàn mắt là biến chứng của vết thương buốt ở mắt mà không được điều trị kịp thời. Khi tất cả những nỗ lực cứu mắt đều thất bại và mắt không dùng được nữa, phải quan tâm đến khả năng phải moi hoặc khoét mắt. Nếu có

116

thể, đưa bệnh nhân đến bác sĩ nhãn khoa. Khoét mắt là sự loại bỏ toàn bộ cầu mắt bằng phẫu thuật và phải do bác sĩ nhãn khoa thực hiện.

Móc mắt là sự loại bỏ thành phần bên trong của cầu mắt bằng phẫu thuật và không cần chuyên gia. Thủ thuật này bao gồm việc cắt lọc bên trong cầu mắt và nạo toàn bộ các chất bên trong. Khi viêm toàn mắt không thể kiểm soát được phải nghĩ đến khả năng phải moi mắt. Cầu mắt bị móc được để mở và điều trị giống như điều trị ổ áp-xe. Sau khi lành, chuyển bệnh nhân đến cơ sở làm mắt giả.

Nhiễm trùng tai

Nhiễm trung tai giữa có biểu hiện là hiện tượng chảy mủ ra tai ngoài. Vệ sinh tai, đặt một miếng bấc và băng lại. Tiếp tục cho dùng kháng sinh và giảm đau nếu cần. Giữ ống tai khô ráo và thay băng khi cần.

Viêm xương chũm cấp tính thường là biến chứng của viêm tai giữa. Bệnh nhân bị sốt và đau ở bên tai bị viêm, nghe không rõ. Có thể có dịch chảy ra từ tai. Bị sưng ở vùng chũm làm vểnh tai ra phía trước và ra ngoài. Điều trị xác định là bộc lộ các tế bào khí vùng chũm bởi một bác sỹ ngoại khoa lành nghề. Nếu không thể thì điều trị ban đầu là giảm đau bằng cách rạch và dẫn lưu ổ áp-xe xuống màng xương.

Kĩ thuật

  1. Gây mê toàn thân hoặc tại chỗ, rạch một đường cong qua phần sưng to nhất của ổ áp-xe hoặc, nếu không rõ, sau loa tai 1,5cm. Rạch sâu xuống màng xương hoặc cho đến khi tìm thấy mủ.
  1. Lấy mẫu để xét nghiệm vi sinh và thực hiện dẫn lưu tự do. Đặt gạc tẩm thuốc mỡ hoặc một ống dẫn lưu latex nhỏ rổi băng lại.
  1. Tiếp tục cho dùng kháng sinh và giảm đau, thay băng nếu cần
  1. Tháo dẫn lưu sau 24-48 giờ.

Áp-xe răng

Điều trị đau răng ban đầu bằng cách vệ sinh ổ hoặc khoang đau, sau đó lấp lại bằng bông tẩm dầu đinh hương hoặc hỗn hợp dầu đinh hương với zinc oxide.

Nhổ răng là cách tốt nhất để dẫn lưu ổ áp xe khi không có phương tiện để điều trị ống chân răng. Loại bỏ răng nếu nó không thể giữ được, lỏng lẻo, yếu hoặc gây ra những cơn đau không kiểm soát được.

Giải thích thủ thuật cho bệnh nhân và nhận được sự đồng ý nhổ răng của họ. Kìm nhổ răng được thiết kế vừa khít với kích thước của răng bao gồm cả chân răng. Một người chưa có kinh nghiệm sẽ thấy đơn giản hơn khi dùng kìm chung cho hàm trên và một kìm khác cho hàm dưới (Hình 5.32).

Các răng hàm trên có 3 chân, 2 bên ngoài và một bên trong vòm miệng, răng hàm dưới có hai chân, một ở giữa, một ở ngoại biên. Các răng cửa hàm trên đầu tiên có hai chân cạnh nhau, một bên trong, một bên ngoài vòm miệng. Tất cả răng còn lại đều có một chân

Dùng gây tê thâm nhiễm tại chỗ để nhổ răng, trừ các răng hàm dưới vì chúng có rất nhiều dây thần kinh. Đôi khi gây mê toàn thân cũng phù hợp.

Kĩ thuật:

  1. Đặt bệnh nhân trên ghế có tựa cao để đỡ đầu. Sau khi bệnh nhân súc miệng, đặt gạc tẩm ethanol 70% vào lợi. Cho kim cỡ 25, 25mm tại đường giao nhau của mucoperiosteum của nướu và má, song song với trục răng (Hình 5.33).

Đưa kim 0.5 đến 1 cm, ngang với đỉnh của răng, ngay trên phần vỏ xương. Góc xiên của kim nên đối diện với răng. Thâm nhiễm các mô bằng 1 ml lidocaine 1% và adrenaline (epinephrine) và nhắc lại quy trình với mặt kia của răng. Xác nhận mức độ gây tê trước khi xử lý răng.

  1. Nếu bạn là người thuận tay phải, đứng phía sau bên phải bệnh nhân khi nhổ răng phải hàm dưới. Đứng đối diện với bệnh nhân về phía bên phải khi xử lý các răng khác. Tách nướu khỏi răng bằng bộ chỉnh thẳng. Trong khi đỡ ổ răng bằng ngón cái và ngón tay của bàn tay kia, đưa kìm sang mé bên kia của đỉnh, song song với trục của chân răng. Đặt gọng kìm khoang miệng và lưỡi trước. Đẩy hai gọng kìm lên và xuống theo màng nha chu trên mặt kia của răng, căn cứ vào từng hàm (Hình 5.34). Nếu bạn điều khiển gọng kìm càng xa dọc theo màng nha chu bao nhiêu thì việc nhổ răng càng dễ thành công bấy nhiêu. Kẹp chặt chân răng bằng kìm và làm cho răng long ra bằng động tác lay nhẹ nhàng từ khoang miệng giáp với má ra phía lưỡi hoặc vòm miệng. Nếu răng không di chuyển, nới lỏng kìm, đẩy sâu hơn và nhắc lại chuyển động lay. Tránh tập trung lực vào răng vì có thể làm mẻ, vỡ răng.
  1. Kiểm tra chiếc răng được nhổ một cách kĩ lưỡng. Nếu chân răng bị gẫy phải loại bỏ bằng cách làm long các mô giữa chân răng và xương với bộ chỉnh cong. Sau khi răng đã được nhổ hoàn toàn, bóp các mé của hốc răng trong khoảng một hoặc hai phút và đặt gòn vào hốc răng. Chỉ dẫn bệnh nhân cắn vào gòn trong một thời gian ngắn. Sau khi bệnh nhân xúc miệng, kiểm tra xem khoang có bị chảy máu không. Cầm máu khi máu không n. chảy bằng các mũi khâu có đệm với chỉ tự tiêu ngang khoang răng
  1. Cảnh báo bệnh nhân không được xúc miệng lại trong vòng 24 giờ, nếu không, các cục máu sẽ bị cuốn theo ra và để lại ổ răng bị khô. Trong những ngày tiếp theo, yêu cầu bệnh nhân thường xuyên xúc miệng bằng dung dịch muối. Có thể dùng thuốc giảm đau. Cảnh báo bệnh nhân không được nhổ răng bằng tay. Nếu nhiễm trùng máu xuất hiện, cho dùng penicillin trong 48 giờ và tiêm phòng uốn ván.

Áp-xe họng và cổ

Các loại phẫu thuật không cấp cứu ở họng, bao gồm cả cắt amidan, nên được thực hiện bởi các bác sĩ phẫu thuật có chuyên môn.

Chích và dẫn lưu áp-xe quanh amidan

Áp-xe quanh amidan (viêm amidan có mủ) là biến chứng của viêm amidan cấp. Các triệu chứng thực thể bao gồm: lưỡi trắng, miệng khô, niêm mạc họng đỏ, Amiđan sưng to và đỏ, có khi gần sát nhau ở đường giữa, một số tổ chức lympho ở thành sau họng to và đỏ: đó là thể viêm Amiđan ban đỏ thường do virus gây nên.Có khi thấy hai Amiđan sưng đỏ và có những chấm mủ trắng ở miệng các hốc, dần biến thành một lớp mủ phủ trên bề mặt Amiđan, không lan đến các trụ, không dính chắc vào Amiđan, dễ chùi sạch không chảy máu để lộ niêm mạc Amiđan đỏ và nguyên vẹn: đó là thể viêm Amiđan mủ do vi khuẩn gây nên (liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn).

Kĩ thuật

  1. Cho dùng kháng sinh và giảm đau, đặt bệnh nhân ở tư thế ngồi, đầu có chỗ dựa. Phun lidocaine 2-4% vào vùng áp-xe. Gây mê tại chỗ an toàn hơn gây mê toàn thân
  1. Kéo lưỡi ra bằng một miếng ấn lưỡi rộng hoặc nhờ một trợ lý giữ nó. Thực hiện chích hút mủ lần đầu, sau đó rạch gần hết phần nhô lên của chỗ sưng(Hình 5.36). Đưa hai đầu kẹp động mạch hoặc kẹp tĩnh mạch vào vết rạch, mở hai gọng kẹp ra để tạo điều kiện cho dẫn lưu (Hình 5.37). Hút khoang bằng ống hút và dội rửa bằng dung dịch muối.

Chỉ dẫn bệnh nhân ngậm nước muối ấm vài lần một ngày trong 5 ngày. Cho sử dụng tiếp kháng sinh trong 1 tuần và dùng giảm đau nếu cần.

Áp-xe sau họng

Áp-xe sau họng xuất hiện ở trẻ em và làm giảm đường khí. Chúng là kết qủa của nhiễm trùng do sùi vòm họng hoặc mũi họng và cần được phân biệt với viêm tế bào. Trẻ không ăn được, thay đổi giọng nói, dễ bị kích thích, bị sốt. Cổ bị cứng và thở ồn. Trong các giai đoạn đầu, phía sau họng bị sưng. Chụp X-quang thấy khoảng sau họng lan rộng. Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh lao. Cho sử dụng kháng sinh và thuốc giảm đau. Phun vào mặt sau của họng để gây mê tại chỗ. Trong khi một trợ lý cố định đầu bệnh nhân, kéo lưỡi bằng dụng cụ đè lưỡi. Chạm đến đỉnh phần lồi ra theo chiều dọc. Đặt đầu kẹp động mạch và mở hốc để dẫn lưu. Loại bỏ mủ bằng cách hút. Chỉ dẫn bệnh nhân súc họng thường xuyên bằng nước muối ấm. Cho dùng kháng sinh và thuốc giảm đau.

Áp-xe cấp ở cổ

Các ổ áp xe sâu ở cổ xuất hiện trong các u bạch huyết. Kiểm tra miệng và họng của bệnh nhân để xác định trọng điểm ban đầu. Nếu apxe cấp và rõ, thực hiện chích và dẫn lưu thông thường. Ở trẻ em, điều trị apxe ở cổ bằng cách hút lặp đi lặp lại. Đối với apxe nhỏ ở bề mặt, hút khoang bằng bơm tiêm có kim lỗ rộng.

Thực hiện chích và dẫn lưu khi gây mê toàn thân đối với các ổ apxe lớn. Vì sự phức tạp của cổ, sự can thiệp bằng phẫu thuật đòi hỏi một bác sĩ phẫu thuật có tay nghề cao và sự hỗ trợ đầy đủ. Thực hiện vết chích ở da tại phần nổi nhất của ổ apxe. Làm rộng vết chích bằng hai đầu kẹp động mạch hoặc tĩnh mạch để dẫn lưu. Lấy mẫu mủ để xét nghiệm vi khuẩn, bao gồm cả kiểm tra vi khuẩn lao. Loại bỏ mô chết. Chèn ống dẫn lưu cao su mềm. Tháo ống dẫn lưu sau 24-48 giờ. Đặt gạc và băng lại.

Viêm vú và áp-xe vú

Nhiễm trùng vú, thường xảy ra trong thời gian cho con bú, hầu hết là do

  1. khuẩn kháng penicillin có tên gọi là staphylococcus aureus. Các vi khuẩn tìm được lối vào thông qua kẽ nứt ở núm vú gây viêm vú (viêm tế bào vú) và có thể tiến tới hình thành ổ áp-xe vú. Áp-xe vú có các dấu hiệu là đau, sưng và sốt. Da trở nên bóng và căng nhưng trong các thời kì đầu sự biến động là bất thường.Khi điều trị viêm vú bằng kháng sinh không mang lại kết quả thì phải nghĩ đến áp-xe vú. Nếu nghi ngờ chẩn đoán, cần thực hiện hút bằng kim để xem có mủ hay không.

Chẩn đoán phân biệt của viêm vú là ung thư vú thể cấp dạng viêm. Bệnh nhân có biểu hiện vú sưng to ,vùng da phía trên ổ áp xe thường nóng ,căng ,xung huyết đỏ hoặc phù tím .Da cũng có thể vẫn bình thường nếu ổ áp xe nằm ở sâu . Các tĩnh mạch dưới da nổi rõ, núm vú tụt .Sờ có thể thấy dấu hiệu ba động .Nếu ổ áp xe thông với các ống dẫn sữa thì có thể thấy sữa lẫn mủ chảy qua đầu núm vú. Khi chọc hút ổ áp-xe phải gây mê phù hợp; ketamine, gây mê vùng rộng hoặc gây mê toàn thân. Khử trùng da và đắp drap. Thực hiện một nét rạch xuyên tâm ở phần nổi nhất của ổ áp-xe (Hình 5.38)

Đưa đầu kẹp động mạch chủ hoặc kéo để làm rộng phần vừa mở để cho mủ thoát ra (Hình 5.39). Mở rộng vết rạch nếu cần. Nuôi cấy vi khuẩn, nấm và lao.Dùng ngón tay phá huỷ toàn bộ các ô ngăn để tạo thành một khoang duy nhất (Hình 5.40). Rửa khoang bằng dung dịch muối, sau đó cho gạc tẩm dung dịch muối hoặc đặt ống dẫn lưu cao su đi qua vết thương (Hình 5.41)

Băng vết thương bằng gạc. Cho dùng giảm đau nếu cần nhưng điều trị bằng kháng sinh là không cần thiết trừ khi bị viêm tế bào. Thay băng khi cần, tháo dẫn lưu khi hết chảy dịch.

Bệnh nhân có thể tiếp tục cho con bú trừ khi bị dương tính với HIV. Đứa trẻ có thế bú cả hai bên vú nhưng nếu mẹ quá đau có thể hút sữa từ bên vú bị đau.

Viêm mủ màng phổi

Viêm mủ màng phổi là hiện tượng viêm và ứ mủ trong khoang màng phổi. Đây thường là biến chứng của bệnh viêm phổi do vi trùng (chiếm 5 – 10

  1. ) Hầu hết vi khuẩn trong viêm mủ màng phổi sau chấn thương,vết thương xuyên thành ngực hoặc phẫu thuật lồng ngực đều là S.aureus . Một số bệnh khác như suy tim, bệnh thận, chấn thương, ung thư di căn, phẫu thuật… cũng có gây tràn dịch, tràn máu, hoặc dưỡng trấp tại màng phổi.

Do viêm mủ màng phổi hầu hết là biến chứng của viêm phổi do vi khuẩn nên vào lúc khởi đầu, triệu chứng của viêm mủ màng phổi thường lẫn lộn với các triệu chứng của bệnh nhiễm trùng phổi trước đó. Ngoài ra, viêm mủ nàng phổi còn là biến chứng tiếp theo của áp xe phổi,vết thương ngực,áp xe dưới cơ hoành hoặc áp xe gan vỡ vào màng phổi,thủng thực quản và các phẫu thuật lồng ngực…vì vậy cần tìm các triệu chứng của viêm mủ màng phổi bên cạnh các nguyên nhân này.

Triệu chứng X quang:

-Tràn dịch lượng ít : góc sườn hoành mất nhọn.Có thể phát hiện tràn dịch lượng ít bằng cách chụp trước-sau ,bệnh nhân nẳm nghiêng bên bệnh xuống giường (như vậy tia X song song với mặt thoáng của dịch ứ đọng)

-Tràn dịch lượng vừa nhưng khoang màng phổi chưa tràn khí : trên phim X quang có hình ảnh đường cong Damoiseau (bề lõm hướng lên trên và vào trong; Nếu đã có tràn khí phối hợp thì có hình ảnh mức khí dịch.

  1. Tràn dịch lượng nhiều :mờ toàn bộ 1 bên phổi, cơ hoành bên bệnh bị đẩy xuống thấp,trung thất bị đẩy về bên đối diện, khoảng gian sườn dãn rộng.

Chọc dò màng phổi: chọc tại khoảng gian sườn 7 đường nách giữa. Chọc dò giúp chẩn đoán xác định, lấy dịch làm xét nghiệm sinh hóa, vi sinh, tế bào

Điều trị:

  1. Kháng sinh: Chọn kháng sinh dựa vào kết quả cấy và kháng sinh đồ. Trước khi có kết quả kháng sinh đồ, nên dùng 2 loại kháng sinh kết hợp,trong đó có 1 loại tác dụng lên vi khuẩn Gram dương. Khi có kháng sinh đồ, dùng kháng sinh sớm, lều cao nhất có thể, đường tĩnh mạch, chỉ ngưng kháng sinh sau 1 tuần hết sốt và công thức máu trở về bình thường. Thời gian sử dụng kháng sinh 3-4 tuần
  • Dẫn lưu mủ màng phổi:

 Nếu mủ ít và loãng : chọc hút 2 ngày 1 lần để trẻ ít đau, chọc hút xong theo dõi 2 giờ liền để phát hiện biến chứng của chọc dò như tràn khí,chày máu, đau…

 Nếu mủ nhiều, đặc hoặc áp lực cao, đặt ống dẫn lưu màng phổi tại khoảng liên sườn 7 đường nách giữa, chọn ống lớn nhất có thể đặt qua khoảng gian sườn , ống phải đủ cứng để không bị bẹp ; nếu cần, đặt nhiều ống ở các vị trí cần thiết. Đặt xong phải nối ống dẫn lưu vào hệ thống

kín,hút với áp lực -10 đến -20cm nước để dẫn lưu được tốt và để phổi dãn nở tốt, Không được hút với áp lực quá lớn làm mất cân bằng áp lực trong khoang màng phổi,gây cản trở sự hấp thụ bình thường của phổi. Thời gian đặt ống dẫn lưu khoảng 5-10 ngày.Đặt ống quá lâu sẽ có nguy cơ nhiễm trùng từ môi trường ngoài vào màng phổi.

 Nếu mủ quá đặc hoặc nghẹt ống dẫn lưu,có thể bơm rửa khoang màng phổi với nước muối sinh lý chú ý lượng nước bơm vào và lượng dịch chảy ra,hoặc thay ống dẫn lưu khác phù hợp

 Rút ống dẫn lưu : Khi dịch màng phổi đã trong, lượng thoát ra dưới 30ml/ ngày, lượng dịch còn lại sẽ thóat ra tại chỗ đặt ống trong vài ngày nữa,vì vậy không cần may lại da chỗ đặt ống,chỉ cẩn băng kín là đủ.

Viêm mủ cơ

Viêm mủ cơ là một ổ áp-xe trong bắp xảy ra tại những bắp thịt lớn ở tay chân và thân, phổ biến nhất ở nam giới vị thành niên. Biểu hiện của nó là cơ bị yếu, đau và sốt. Nó thường xảy ra đơn lẻ nhưng cũng có thể xảy ra ở các nhóm cơ cách xa nhau. Staphylococcus aureus là nguyên nhân chính. Nuôi cấy máu thường âm tính và không thấy xuất hiện leukocytosis. Ở các bệnh nhân bị suy giảm hệ miễn dịch, bao gồm cả bệnh nhân có HIV dương tính và bệnh nhân tiểu đường, có thể xuât hiện gram âm và viêm mủ cơ do nấm.

Hút mủ bằng kim lỗ lớn (cỡ 14 hoặc 16) để chẩn đoán. Điều trị bằng chích, rạch và dẫn lưu. Đặt ống dẫn lưu cao su trong 48 tiếng.

Nhiễm trùng bàn tay

Staphylococci là nguyên nhân gây lên các loại nhiễm trùng cấp ở tay. Có thể xử lý nhiễm trùng sớm bằng kháng sinh nhưng rạch và dẫn lưu cũng cần thiết. Cần cho dùng kháng sinh đến khi kiểm soát được nhiễm trùng máu .

Bệnh nhân có biểu hiện đau nhói, sưng, những chỗ cong của ngón tay bị dị dạng và đau khi cử động. Để xác định áp-xe cần chọc hút bằng kim. Cho chụp X-quang tay để xác định xem có xương nào bị ảnh hưởng và có vết Gram trong mủ không.

Thực hiện gây mê toàn thân hoặc gây mê theo vùng,sau đó rạch và dẫn lưu. Rạch

một đường dọc theo nếp gấp da trên vùng sưng rõ nhất (Hình 5.42)

Hút và rửa sạch mủ. Mở ô ngăn sâu hơn bằng kẹp động mạch và đặt ống dẫn lưu cao su. Băng vết thương lỏng bằng gạc khô, cho dùng kháng sinh và nâng cao tay.

Chỗ sưng trên mu bàn tay thường do phù nề bạch huyết và không cần dẫn lưu. Nhiễm trùng ở xung quanh móng tay cần phải rạch tại một phần của móng để cho mủ chảy ra.

Điều trị viêm mé móng ở ngón tay giữa bằng cách rạch quanh phần bị viêm (Hình 5.43) hoặc cắt lọc một phần móng tay (Hình 5.44)

Điều trị áp-xe đầu ngón tay bằng vết rạch  “gậy hockey”(Hình 5.45)

Điều trị sự co cứng nhiễm khuẩn cấp tính bằng kháng sinh và dẫn lưu phẫu thuật của màng gân thông qua vết rạch dọc theo các mé ngón tay, tốt hơn là giữa da gan bàn tay và lưng bàn tay (Hình 5.46). Nhiễm trùng màng gân của ngón cái và ngón út có thể lan rộng đến bìu ở trung tâm hay xương trụ (Hình 5.47), cần dẫn lưu bằng vết rạch ngắn, ngang cơ ở nếp gấp da lòng bàn tay và/hoặc ở gốc gan bàn tay.

Các nhiễm trùng tại gan bàn tay là kết quả của các nhiễm trùng màng gân lan rộng. Dẫn lưu khu vực nhiễm trùng bằng cách rạch da tại vùng sưng và mềm nhất. Mở sâu hơn bằng kẹp. Thực hiện các vết rạch để dẫn lưu dọc theo nếp gấp da gan bàn tay, dọc theo mép các ngón tay hoặc dọc theo mép cánh tay (Hình 5.48)

Nẹp tay. Khuyến khích việc chủ động tập luyện càng sớm càng tốt. Cho dùng kháng sinh và giảm đau, tháo dẫn lưu sau 24-48 giờ.

NHIỄM TRÙNG MÁU QUANH HẬU MÔN, TRỰC TRÀNG VÀ Ổ LÔNG

Hậu môn và trực tràng

Triệu chứng cơ bản của nhiễm trùng quanh hậu môn là đau nhói ở hậu môn kèm hoặc không kèm theo sốt. Loại trừ sự hiện diện của ổ áp-xe trong tất cả các trường hợp đau quanh hậu môn. Áp-xe quanh hậu môn, áp xe ụ ngồi trực tràng ,áp-xe liên cơ thắt hay áp-xe dưới cơ được xác định theo vị trí. Bệnh nhân có thể không ngồi được. Có thể khám trực tràng để chẩn đoán. Đối với bệnh nhân nữ, khám trực tràng kèm theo khám âm đạo. Có thể cho gây mê toàn thân hoặc gây mê cục bộ trong khi thực hiện loại thăm khám này vì chúng sẽ gây khó chịu. Hậu môn khép chặt cho thấy sự co thắt do tình trạng hậu môn bị đau. Sờ nắn bất kì thương tổn nào ở khu vực này.

Đưa ngón tay đeo găng đã được bôi trơn vào hậu môn, bề mặt lòng bàn tay quay ra phía sau. Sờ nắn vách sau hậu môn và tất cả những phần nào của hậu môn đối diện với phần cong của xương cùng. Quay ngón tay để kiểm tra bất kì chỗ phình hay đau nào gợi ý cho sự tồn tại của áp-xe chậu (Hình 5.49). Tuyến tiền liệt ở nam giời và cổ tử cung ở nữ giới có thể sờ thấy trước (Hình 5.50). Lùi ngón tay lại và kiểm tra phân, chất nhầy hoặc máu. Lấy mẫu để xét nghiệm. Khi khám trực tràng bệnh nhân bị áp-xe quanh hậu môn sẽ bị đau ở mép hậu môn trong khi bệnh nhân bị áp-xe ụ ngồi trực tràng sẽ bị đau sâu. Nếu nghi ngờ chẩn đoán cần thực hiện chẩn đoán bằng chích hút.

Áp-xe quanh hậu môn có biểu hiện rất đau, viêm, sưng tại chỗ ở vùng ven hậu môn. (Hình 5.51). Áp-xe ụ ngồi trực tràng có biểu hiện bị đau lan rộng cứng lại ở hỗ ụ ngồi trực tràng. Sự biến đổi của những thương tổn này thường ít gặp ở giai đoạn đầu và có thể không bao giờ xuất hiện. Sự đau đớn là dấu hiệu đáng tin cậy của áp-xe quanh hậu môn hay áp-xe trực tràng. Cho dùng kháng sinh và giảm đau. Để dẫn lưu ổ áp-xe, đặt bệnh nhân ở vị trí giống như để cắt sỏi. Rạch một đường giữa trung tâm phần nổi lên nhất của ổ áp-xe. Lấy mẫu để cấy ghép và soi kính hiển vi. Phá huỷ toàn bộ các ô bằng một ngón tay (Hình 5.52). Rửa khoang bằng dung dịch muối và sơ bôi đóng lại bằng gạc tẩm dung dịch muối, để thò ra một ít (Hình 5.53). Đậy vết thương lại bằng gạc khô và băng.

Chỉ dẫn bệnh nhân ngồi để rửa trong dung dịch muối khoảng 15-30 phút hai lần một ngày cho đến khi vết thương lành, thay băng sau mỗi lần rửa. Không được để cho các mép vết thương đóng lại. Cho dùng thuốc nhuận tràng như paraffin lỏng (dầu khoáng) hàng ngày cho đến khi có nhu động ruột và tiếp tục điều trị bằng kháng sinh trong 5 ngày. Tiếp tục dùng giảm đau cho đến 72 giờ.

Việc tái phát sinh các ổ áp-xe thường do dẫn lưu không tốt hoặc do da vùng vết thương liền sớm.

Rò hậu môn xuất hiện như một biến chứng muộn. Bệnh nhân bị rò hậu môn nên được đưa đi can thiệp bằng phẫu thuật. Lý do cần cho bệnh nhân chuyển tuyến là vì việc thực hiện thủ thuật mở đường rò trong rò hậu môn nặng sẽ dẫn đến tình trạng bệnh nhân không tự kiềm chế được đại tiện nếu không được xử trí tốt, do đó cần có được sự xử trí chuẩn xác.

Bệnh ổ lông và áp-xe

Bệnh ổ lông là kết quả của hiện tượng lông mọc vào trong tạo nên lỗ rò ở da và dưới da tại khe sau xương cùng. Lỗ rò có thể là một,có thể là nhiều, biểu hiện ở sự xuất hiện một hay nhiều lỗ (Hình 5.54).Bệnh gây ra viêm cấp hoặc mạn tính. Bệnh nhân bị đau, sưng và chảy mủ hoặc có ổ áp-xe. Áp-xe ổ lông không thể chỉ điều trị bằng kháng sinh. Điều trị ban đầu bằng chích và dẫn lưu. Để điều trị dứt điểm, loại bỏ toàn bộ lỗ rò và lông chứa mô bằng cách rạch một hình ellip mô xuống băng trước xương cụt (Hình 5.55). Gây mê cục bộ với lidocaine 1% và epinephrine (adrenaline).

Bình luận về bài viết này