RẠCH VÀ SINH THIẾT

NHỮNG ĐIẾM MẤU CHỐT:

 Cắt lọc những thương tổn để điều trị và  chẩn đoán xác định

 Thực hiện chẩn đoán bệnh ác tính bằng sinh thiết trước khi điều trị dứt điểm

 Lấy chất liệu cho kiểm tra mô bằng cách:

  • Sinh thiết rạch khi phần của u được loại bỏ (sinh thiết một phần)
  1. Sinh thiết cắt khi toàn bộ u được loại bỏ (sinh thiết trọn)
  1. Sinh thiết chọc khi nhân khối u được loại bỏ

 Lấy chất liệu cho kiểm tra tế bào bằng hút qua kim;nếu sinh thiết không đúng chỗ tổn thương hoặc tổn thương bị hoại tử thì sẽ cho kết quả âm tính không chính xác.

 Hoại tử xuất hiện khi dùng cách đốt bằng điện, do đó nên cắt khối u bằng dao mổ

 Trong sinh thiết chọc và hút, kết quả âm tính không chính xác là do lỗi khi lấy mẫu; Sinh thiết lại nếu kết quả không tương ứng với trạng thái lâm sàng

 Không đưa bệnh nhân đi xa nhà nếu họ bị bệnh di căn không thể chữa được

CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

Kiểm tra mô và tế bào

Sinh thiết đòi hỏi kiểm tra mô và tế bào. Ở các cơ sở nhỏ có thể không có nhà nghiên cứu bệnh học tại chỗ thì có thể gửi đến những đơn vị nghiên cứu bệnh học,nơi sẽ nhận mẫu và trả lại kết quả. Mẫu phải được chuyển đến trong điều kiện có thể chấp nhận được, do đó cần liên hệ với phòng xét nghiệm về cách chuẩn bị, bảo quản mẫu, thuốc hãm và các giải pháp tốt nhất đối với điều kiện của cơ sở. Thông thường, các mẫu từ trung tâm xa xôi được các nhà nghiên cứu bệnh học quan tâm và vui lòng đón nhận. Gửi mẫu đến đơn vị nghiên cứu bệnh học qua đường bưu điện hoặc nhân viên bệnh viện khi họ có việc lên trung tâm lớn. Quá trình này có thể gây chậm chễ nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong 3-5 tuần. Để đóng gói cả mẫu sinh thiết và những chuẩn bị về tế bào, viết tên bệnh nhân, cơ sở gửi, ngày lấy mẫu bằng bút chì lên một miếng giấy dán. Đặt miếng giấy đó vào lọ đựng mẫu. Lắp lại cẩn thận bằng băng dính và đặt lọ trong ống (hoặc hộp)bằng thuỷ tinh cùng với những ghi chép tổng hợp về bệnh nhân, tình trạng lâm sàng, chẩn đoán dự kiến, loại mô được gửi và yêu cầu xét nghiệm. Đặt ống vào hộp gỗ hoặc bìa cứng, đóng gói cẩn thận và gửi đi.Nếu được chuẩn bị kĩ , mẫu sẽ không bị hư hại kể cả thời gian vận chuyển có lâu đi nữa.

CÁC QUY TRÌNH ĐẶC THÙ

Thương tổn ở da và dưới da

Rạch da bằng dao song song với hướng nếp da. Thực hiện đường rạch hình ellip theo trục, đủ rộng để mở da mà không bị biến dạng.Để thực hiện việc này, làm cho các trục dài gấp đôi chiều dài của trục ngắn và đóng vết rạch với hai mũi khâu khoảng cách bằng nhau. Đối với vết rạch dài, đặt mũi khâu đơn ở hai đầu trước khi đóng. Bố trí đường rạch như thế nào đó để tránh phải xoay nắp hoặc miếng ghép (Hình 5.56)

Cắt các tổn thương dưới da sau khi vào được bên trong vết rạch (Hình 5.57). Không được loại bỏ da trừ khi nó bị phần dưới da dính chặt. Các u nang thể vùi dưới da về mặt vị trí là ở dưới da nhưng ở thể lõm với những nốt trông thấy xuất hiện trên bề mặt da nơi chúng tồn tại. Thất bại trong việc loại bỏ những nốt đó có thể làm cho u bị gãy khi cắt và có thể dẫn đến việc tái phát sinh do việc cắt không được hoàn thiện.

U lipo, u mỡ lành tính thường xuất hiện dưới da và làm bệnh nhân cảm thấy khó chịu vì chúng thường ở những vị trí không thuận tiện và có kích thước lớn. Cắt bỏ bằng cách cắt từng mảnh khối u từ những mô dưới da xung quanh.

Nếu khối u lớn thì thường khó có thể đóng các mô dưới da mà không làm dị dạng da. Trong trường hợp đó, sử dụng ống dẫn lưu cao su nhỏ hoặc băng áp suất để đóng chỗ chết thay vì khâu dưới da.

Gửi mẫu sinh thiết đi kiểm tra bệnh học để xác định mô ác hay lành. Các u lipo rõ, u nang thể vùi dưới da, hạch ở cổ tay có thể loại trừ khả năng là u ác. Ung thư biểu bì tế bào cơ sở và tế bào hình vảy thường do sự da quá mẫn cảm với ánh mặt trời. Những người Bắc Âu và người bạch tạng đặc biệt hay bị bệnh này. Ung thư biểu bì tế bào cơ sở không cần phải cắt bỏ rộng. Ung thư biểu bì tế bào hình vảy thì nguy hiểm cho tính mạng. Điều trị bằng cách cắt bỏ toàn bộ ở vùng rộng.

Chàm là một loại u lành hình thành do tăng sắc tố da. U hắc tố là một loại u ác có cùng một đường tế bào. Cả hai đều liên quan đến ánh nắng mặt trời nhưng u hắc tố có thể xuất hiện ở bề mặt bàn chân. U hắc tố rất nguy hiểm cho tính mạng. Cần sinh thiết tất cả các tổn thương nghi ngờ và đưa đến kiểm tra bệnh học. Nếu xác định là u ác phải sắp xếp để can thiệp bằng giải phẫu đặc thù.

Sinh thiết u bạch huyết

Đây là u ác tính của các bạch huyết bào, sau khi di chuyển ra khỏi tủy xương. U bạch huyết xuất hiện ở hạch bạch huyết hay ở các mô mềm trong cơ thể, vì thế khi sinh thiết cần cắt sâu hơn so với các loại sinh thiết da và dưới da. Cần gây mê toàn thân. Thực hiện một đường rạch thẩm mĩ theo nếp da, cắt nhỏ các mô dưới da, kiểm soát chảy máu trong khi làm. Tìm u bạch huyết bằng đầu ngón tay và rạch qua mặt u. Cắt nhỏ khối u từ các mô xung quanh mà không được trực tiếp kẹp nó.Thay vào đó, kẹp mô dính vào bằng kẹp động mạch nhỏ hay đặt mũi chỉ hình số 8 vào khối u để kéo. Tách toàn bộ mô dính ra khỏi khối u. Kiểm soát các mạch bằng kẹp và nối chúng lại bằng chỉ tự tiêu sau khi lấy khối u ra(Hình 5.58)

Cổ và tuyến giáp

Loại bỏ các thương tổn trên da cũng như ở bất kì vị trí nào trên cơ thể. U bạch huyết, u bẩm sinh, u tuyến giáp và bướu là phức tạp nhất và phải cần đến bác sĩ phẫu thuật có chuyên môn. Sử dụng cách hút dò bằng kim (FNA) để chẩn đoán những tổn thương này. FNA không hữu hiệu đối với việc chẩn đoán u lympho. FNA các u tuyến giáp thoái hoá thường là để chữa bệnh.

Xoang miệng

Các thương tổn ở đường tiêu hoá biểu hiện ở các nốt trắng (chứng bạch sản) hoặc các nốt đỏ (chứng hồng sản) mà có thể là ung thư biểu bì tế bào hình vảy hoặc loạn sản. Sự lạm dụng rượu, thuốc lá hoặc hội chứng suy giảm miễn dịch làm tăng cơ hội cho các bệnh ác tính đường miệng. Cần kiểm tra tổng thể đầu,cổ, bao gồm cả kiểm tra khẩu hầu. Sinh thiết những thương tổn nghi ngờ. Cắt phần hồng sản và khâu lại phần khuyết lõm bằng chỉ tự tiêu. Nếu tổn thương quá lớn, loại bỏ một nêm mô bao gồm một vòng mô bình thường bên cạnh.

Mắt

Mụn lẹo là một u nang bị viêm mạn tính có kích thước 2-5mm tại một trong số các tuyến nâng đỡ mi mắt. Cần can thiệp bằng phẫu thuật nếu bị sưng trong thời gian dài và điều trị tại chỗ bằng thuốc không hiệu quả. Nó có thể tái phát ở các tuyến hỗ trợ mi bên cạnh. Sau khi gây mê cục bộ bằng tetracaine 0.5%, tiêm 1–2 ml lidocaine 2% vòng quanh mụn lẹo qua da. Đặt kẹp mụn lẹo để tấm đặc trên da và tấm tạo cửa sổ vòng quanh mụn lẹo, vặn ốc vít và lộn mi.Rạch khối lẹo ở các góc phải so với bờ mi và nạo nội dung bên trong lẹo (Hình 5.59). Bỏ kẹp và ấn bờ mi cho đến khi máu ngừng chảy. Cho dùng thuốc mỡ kháng sinh tra mắt, băng lại. Dùng thuốc mỡ đến khi vết thương liền da.

Không được điều trị các mụn thịt nhỏ. Nếu các mụn thịt lan rộng đến vùng trung tâm quang của giác mạc thì cần tham vấn bác sĩ nhãn khoa.

Sinh thiết ngực

Sinh thiết ngực được chỉ định cho các thương tổn vú có thể sờ thấy và các thương tổn nhìn thấy bằng cách chụp X-quang tuyến vú. Gây mê tại chỗ để thực hiện cắt thương tổn sờ thấy được . Các thương tổn không sờ thấy được đòi hỏi kĩ thuật phẫu thuật chuyên khoa với các thiết bị quang tuyến để xác định vị trí của thương tổn. Dùng kim hút các khối u vú. Nếu có sự tái phát sinh sau khi hút u, thực hiện tiếp sinh thiết cắt bỏ.

Hút bằng kim

Dùng FNA và kiểm tra tế bào để chẩn đoán các u rắn ở vú là lành tính hay ác tính. Chọc kim cỡ 21 vào u và hút vài lần rồi rút kim ra. Tháo kim khỏi bơm tiêm và hút vài ml không khí vào bơm. Nắp kim trở lại vào bơm tiêm và sử dụng không khí để làm rỗng các tế bào. Điều chỉnh lại các tế bào bằng phun tế bào hoặc theo chỉ dẫn của nhà nghiên cứu bệnh học.(Hình 5.60)

Một kết quả dương tính xác định u ác và kết quả âm tính có thể không mang tính chẩn đoán và có thể do lỗi trong khi lấy mẫu. Thực hiện lại quy trình trên hoặc thực hiện sinh thiết mở nếu kết quả là âm tính.

Sinh thiết bằng kim (chọc sinh thiết)

Sinh thiết bằng kim tương tự như FNA ngoại trừ việc lõi của mô được lấy ra từ tổn thương. Đây là một phương pháp tốt để xác nhận sự nghi ngờ các u ác tính nhưng, giống như tất cả các thủ thuật bằng kim khác, nó chỉ thực hiện khi đã xác định được tính lành hay ác của khối u. (Hình 5.61)

Sinh thiết mở

Sử dụng sinh thiết cắt hoặc sinh thiết rạch để lấy mô vú đi kiểm tra mô. Rạch da theo nếp gấp của da. Chú ý đến việc đảm bảo tính thẩm mĩ của vết rạch khi nó ở các vị trí nhạy cảm. Cần quan tâm đến các phẫu thuật tiếp theo, cắt bỏ toàn bộ vú hay cắt bỏ rộng.

Sinh thiết cắt bỏ

Loại bỏ toàn bộ khối u và một vòng các mô bình thường. Đây là cách chữa bệnh đối với các tổn thương lành tính.

Sinh thiết rạch

Sử dụng khi chỉ cần lấy ra một phần khối u lớn. Tránh sinh thiết khối u đã bị chết hoại vì nó không cho kết quả chẩn đoán. Khâu các lớp sâu bằng chỉ tự tiêu và khâu da bằng chỉ không tiêu. Khâu dưới da sẽ cho kết quả mang tính thẩm mĩ hơn. Đặt một ống dẫn lưu cao su nhỏ vào trong vết rạch. Tháo ra sau 48 giờ.

SINH THIẾT PHỤ KHOA

Sinh thiết âm hộ

Sinh thiết các thương tổn ở âm hộ được chỉ định trong các trường hợp bị chứng bạch sản, ung thư biểu bì và bướu Condylom. Thĩnh thoảng, sinh thiết có thể xác định được lao hay schistosomiasis như là nguyên nhân của thương tổn.

Để bệnh nhân ngồi theo tư thế thực hiện thủ thuật phá sỏi, vệ sinh và đắp ga vùng đáy chậu. Gây mê tại chỗ bằng thâm nhiễm lidocaine 1%. Nếu tổn thương âm hộ quá lớn, cắt một phần, nối các mạch máu và gắn với da. Tách các tổn thương nhỏ khu trú khỏi mép da lành. Biến chứng có thể là chảy máu.

Xét nghiệm tế bào cổ tử cung

Xét nghiệm tế bào để chẩn đoán các thương tổn tiền ung thư. Xét nghiệm tế bào cổ tử cung được tiến hành bằng cách lấy tế bào cổ tử cung, nhuộm, soi dưới kính hiển vi. Đặt mỏ vịt nhỏ vào âm đạo để quan sát cổ tử cung, dùng một que gỗ nhỏ (que chuyên lấy bệnh phẩm) quệt lấy tế bào cổ tử cung. Những tế bào này được rải lên một phiến kính nhỏ rồi cố định bằng một dung dịch đặc biệt, sau đó gửi đến phòng xét nghiệm chuyên khoa.

Sinh thiết cổ tử cung

Sinh thiết cổ tử cung luôn luôn được thực hiện dưới hướng dẫn của máy soi để hạn chế tối đa kết quả âm tính giả do sinh thiết không đúng chỗ. Soi và sinh thiết cổ tử cung là xét nghiệm quan trọng trong việc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Sinh thiết là phương tiện sau cùng và cho kết quả chính xác hơn cả. Đôi khi sinh thiết, ngoài để chẩn đoán còn là một phương pháp điều trị đối với giai đoạn sớm của bệnh, đó là trường hợp khoét chóp cổ tử cung sinh thiết

24 giờ trước khi tiến hành thủ thuật soi và sinh thiết cổ tử cung không nên thụt rửa bên trong âm đạo hay giao hợp.

Trước khi làm thủ thuật, bệnh nhân nên đi tiêu tiểu. Bác sĩ có thể cho một ít thuốc giảm đau trước khi soi và sinh thiết cổ tử cung (Hình dưới).

Nếu khi sinh thiết cổ tử cung bác sĩ chỉ lấy đi một mẩu mô (không phải khoét chóp cổ tử cung) thì không ảnh hưởng đến việc mang thai sau này vì mẩu mô này thường rất nhỏ. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân đang mang thai hay nghi ngờ có thai có thể sẽ thay đổi cách thức tiến hành thủ thuật. Bệnh nhân có thể bị xuất huyết nhẹ nếu đã sinh thiết, nhưng thường không có tác dụng phụ nào khác. Tuy nhiên, nếu sau thủ thuật sinh thiết cổ tử cung có biểu hiện các triệu chứng như: xuất huyết nhiều (thấm ướt hơn một băng vệ sinh trong một giờ); đau bụng dưới; sốt, ớn lạnh hay dịch tiết có mùi hôi phải báo ngay cho bác sĩ.

Sướt cổ tử cung

Sướt cổ tử cung là một tên gọi không chính xác cho hiện tượng biểu mô nội mạc cổ tử cung màu đỏ tươi lan ra ngoài cổ tử cung. Nó có thể liên quan đến hiện tượng chảy máu khi va chạm. Khi khám có thể dễ nhận ra một vùng đỏ tươi kéo dài ra ngoài cổ tử cung. Nó có một mép ngoài dễ xác định nhưng không có lỗ trên bề mặt. Khi xét nghiệm kĩ thuật số, nó có cảm giác mềm với bề mặt có hạt tạo cảm giác gai gai khi sờ bằng đầu ngón tay. Nếu chạm vào sẽ bị chảy máu.

Thực hiện phết cổ tử cung để xét nghiệm tế bào. Nếu có biểu hiện bị mắc thì điều trị thương tổn bằng cách đốt điện. Không cần gây mê nhưng có thể dùng giảm đau. Cùng với việc thực hiện đốt điện, đánh dấu các đường viền đồng tâm tại vùng niêm mạc bị bệnh nhưng không được chạm vào ống cổ tử cung. Bệnh nhân tránh giao hợp trong 3-4 tuần. Các biến chứng có thể xảy ra bao gồm hẹp cổ tử cung(đặc biệt là nếu nội mạc tử cung đã từng vô tình bị đốt) và xuất huyết.

Sinh thiết nội mạc tử cung

Sinh thiết nội mạc tử cung được thực hiện hầu hết để giúp xác định nguyên nhân của chảy máu tử cung bất thường. Nó cũng có thể được làm để giúp đánh giá nguyên nhân của vô sinh,test để kiểm tra sự nhiễm trùng tử cung, và thậm chí là sự đáp ứng với một số thuốc.

Sinh thiết nội mạc tử cung được thực hiện trước kì kinh nguyệt.

Bệnh nhân nằm trên một bàn xét nghiệm theo một vị trí thích hợp để có thể sử dụng để lấy mẫu phết Pap. Sử dụng một mỏ vịt để mở ống âm đạo và hình dung cổ tử cung, mở tử cung. Trong suốt quá trình sinh thiết nội mạc tử cung, cần chèn vào một thiết bị hình ống bằng chất dẻo hay kim loại ngang qua cổ tử cung vàotrong tử cung để lấy ra một mảnh nhỏ của lớp mô lót bên trong(Hình 5.63)

Thường không đòi hỏi gây tê, nhưng dùng thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) 30 đến 60 phút trước khi thực hiện có thể giúp giảm chuột rút và đau. Trong một số trường hợp, một lượngnhỏ thuốc tê lidocaine có thể được thêm vào trong khoang tử cung để giảm sự bất tiện

Có rất ít nguy cơ với sinh thiết nội mạc tử cung. Nguy cơ hàng đầu là đau hay chuột rút, nhưng đặc điểm này nhanh chóng biến mất theo phẫu thuật. Những nguy cơ ít phổ biến khác là cảm giác chóng mặt hay mê sảng, có thể nhiễm trùng, chảy máu và hiếm hơn là thủng tử cung

Cắt bỏ polip

Polip cổ tử cung là u có cuống mọc ra từ cổ tử cung, nằm trong âm đạo, có hình tròn hoặc hình bầu dục, kích thước to nhỏ khác nhau (có trường hợp polip to như quả trứng vịt hoặc to hơn nữa, làm chật cả âm đạo). Thường người bệnh không phát hiện được mình bị polip nếu không đi khám phụ khoa thường xuyên. Tuy là u lành tính, nhưng có một số ít chuyển thành ung thư, và phải làm sinh thiết thì mới có kết quả chính xác.

Đặt bệnh nhân theo tư thế cắt sỏi, vệ sinh và đắp ga vùng làm thủ thuật.

Làm lộ cổ tử cung và kẹp lấy môi trước của nó bằng kẹp có rưng (Hình 5.64).

Kẹp polyp bằng cái kẹp gạc và lấy ra bằng cách thắt rồi cắt chân polyp. (Hình 5.65,5.66,5.67)

Sau khi cắt bỏ polyp thực hiện tiếp việc nong và nạo khi bệnh nhân được gây mê.Tìm các thương tổn khác trong dạ con như ung thư biểu bì và điều trị các polyp mới xuất hiện trong cổ tử cung hoặc trong thân dạ con. Gửi mẫu đi xét nghiệm mô.

NỘI SOI RUỘT THẲNG VÀ CÁC TRưỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

Ống soi ruột thẳng

Ống soi ruột thẳng cho phép nhìn thấy và sinh thiết toàn bộ ống hậu môn nhưng chỉ một phần ruột thẳng có thể nhìn thấy. Ánh sáng tốt là rất cần thiết. Sự tự tin và hợp tác của bệnh nhân rất hữu ích. Nói chuyện với họ trong khi thực hiện thủ thuật. Giải thích quy trình và mục đích của nó, nhấn mạnh rằng thủ thuật chỉ gây khó chịu không đáng kể. Không được chỉ định thụt trừ khi bệnh nhân bị táo bón hoặc cần làm thêm nội soi đại tràng sigma.

Kĩ thuật

  1. Thực hiện xét nghiệm kĩ thuật số ban đầu. Sau đó, vẫn để bệnh nhân ở vị trí cũ, đưa ống soi ruột thẳng vào để nhìn thấy các thương tổn có thể có. Bôi trơn rồi đưa ống soi vào, giữ tay cầm bằng các ngón tay và ấn ngón cái lên đầu vật để bịt(Hình 5.68). Bằng cách này sẽ kẹp giữ được hai đầu của dụng cụ.
  1. Khi đưa ống soi vào hết cỡ (Hình 5.69), chỉ dẫn bệnh nhân thở sâu, miệng há ra. Bỏ vật để bịt ra và điều chỉnh ánh sáng vào trong ống soi(Hình 5.70). Loại bỏ chất cặn, chất nhầy và máu. Chỉnh ống soi để lumen của ruột có thể nhìn thấy được rõ ràng. Chầm chậm rút dụng cụ ra trong khi tiếp tục duy trì ống soi trong ruột để có thể nhìn thấy bất kì thương tổn niêm mạc nào bao gồm u polyp và trĩ.Ghi chép hình ảnh của niêm mạc
  1. Nếu có đủ thiết bị xét nghiệm mẫu, lấy mẫu sinh thiết từ các khu vực bất thường có thể nhìn thấy, sử dụng kẹp sinh thiết đặc dụng. Lấy mẫu mô qua ống soi. Nhớ rằng việc lấy mẫu sinh thiết từ niêm mạc ruột thẳng thường gây khó chịu và việc lấy mô từ lớp lót hậu môn sẽ gây đau dữ dội. Khi thực hiện việc này, không được lấy mô từ khối trĩ hoặc bất kì thương tổn thuộc mạch máu nào.
  1. Ngay sau khi được lấy ra từ cơ thể bệnh nhân, ngưng kết mẫu mô trong dung dịch muối formaldehyde: 10 ml hỗn hợp formaldehyde 37% + 90 ml dung dịch muối sinh lý ; quá trình ngưng kết mất khoảng 48 tiếng. Có thể sử dụng cách ngưng kết do nhà nghiên cứu bệnh học địa phương chỉ dẫn.

Nội soi đại tràng sigma

Nội soi đại tràng sigma được chỉ định cho bệnh nhân có triệu chứng tràng bệnh và kết quả soi đại tràng bằng ống soi không xác định. Nó cũng được chỉ định dùng tiếp sau soi đại tràng bằng ống soi để xác định những thương tổn bổ sung như bệnh polyp hoặc schistosoma ruột thẳng. Đối với viêm kết tràng amip, nội soi đại tràng sigma rất hữu hiệu trong việc đánh giá phản ứng của ống soi kết tràng đối với việc điều trị. Nó cũng tạo điều kiện cho việc gợi ý sử dụng một ống trực tràng để giải nén và giảm bớt xoắn ruột sigma. Hình thức kiểm tra này thường tiếp sau kiểm tra ruột thẳng và soi ruột.

Kĩ thuật

  1. Yêu cầu bệnh nhân thụt rửa trực tràng. Nếu họ không thể thực hiện được điều này ngay, cho dùng thuốc sổ. Kiểm tra thiết bị, đặc biệt là đầu-ánh sáng, thị kính (cửa sổ) và bơm lạm phát (bellows) để đảm bảo rằng chúng thích hợp với nhau và đủ ánh sáng đến cuối ống.
  1. Bôi trơn ống nội soi trước khi bắt đầu và đưa nó vào với vật nút lại đúng vị trí. Ở các giai đoạn đầu, nội soi đại tràng sigma tương tự như soi ruột thẳng (Hình 5.71). Tiếp theo, đưa ống về phía sau và lên phía trước (Hình 5.72,5.73). Giữ chặt vật để lắp để tránh bị bật ra (Hình 5.74)
  1. Sau khi đưa ống soi vào khoảng 10cm, bỏ vật để lắp ra (Hình 5.75). Nếu có sự tắc nghẽn trước khi đưa ống soi vào 10 cm, tháo vật để lắp tại điểm này.

Sau đó lắp thị kính(bộ phận chứa nguồn sáng và điểm nối với bơm). Để nhìn thấy thành ruột và lumen ruột, cho một ít không khí và chỉnh ống soi. Nhẹ nhàng đưa dụng cụ lên, giữ nó cẩn thật trong khoảng lumen ruột. Cho không khí vào tại các khoảng để mở lumen ruột dần dần vượt ra ngoài ống soi. Khi các nội dung trong ruột che khuất tầm nhìn, tháo thị kính và thụt rửa các chất đó bằng cách sử dụng cuộn nha khoa được giữ chặt bằng kẹp sinh thiết.

  1. Thay đổi liên tục hướng của ống soi để giữ nó trong phạm vi lumen. Không được đưa ống lên trừ khi lumen ruột được nhìn thấy. Khoảng cong sigma có thể khó đi qua được cho nên không được vội vã. Nếu quá khó khăn thì dừng lại. Không được sử dụng lực để ấn ống soi vào hay lấy mẫu sinh thiết ra khỏi thành ruột. Điều này có thể gây ra tổn thương, thậm chí là thủng trực tràng.

Nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu trong khi thực hiện thủ thuật, kiểm tra lại ống soi, tháo không khí bằng cách tháo thị kính hoặc ngắt bơm, sau đó lắp lại dụng cụ và tiếp tục thực hiện quy trình. Khi sắp kết thúc, cho không khí trong ruột ra ngoài trước khi rút ống soi ra.

Tụ huyết quanh hậu môn

Tụ huyết quanh hậu môn thường khá đau. Vùng bị viêm bị căng, đau và dễ dàng nhìn thấy khi kiểm tra bờ hậu môn. Nó giống như một chỗ sưng nhỏ bằng hạt đậu và đau.

Điều trị cơ bản bằng cách giảm đau tại chỗ hoặc qua đường miệng bằng analgin và bằng cách giúp bệnh nhân tránh bị táo bón. Thương tổn sẽ ổn định sau vài ngày hoặc một tuần.Nó có thể được giải quyết bằng nén dung dịch muối ưu trương. Trong thời gian này, ổ xung huyết có thể bị vỡ ngay làm chảy máu cục và giảm đau. Trong các giai đoạn đầu hình thành ổ xung huyết có thể thực hiện thụt rửa khi gây mê tại chỗ để giảm đau. Dẫn lưu không được chỉ định trong giai đoạn hậu cấp và mạn tính của xung huyết quanh hậu môn.

Nứt hậu môn

Nứt hậu môn là một vết rách niêm mạc ống hậu môn dưới. Nó thường rất đau, đặc biệt là trong và sau khi đại tiện. Các cục phân cứng làm tình trạng trở nên xấu hơn. Hậu môn khép kín do co thắt vì vậy cần sử dụng gel giảm đau tại chỗ, thi thoảng phải cho gây mê toàn thân, nếu cần phải kiểm tra cẩn thận. Vết nứt có thể cấp hoặc mạn tính.

Không cần can thiệp bằng phẫu thuật, đặc biệt đối với vết nứt cấp tính. Nên đề nghị bệnh nhân sử dụng thực đơn có nhiều chất xơ, dùng giảm đau tại chỗ bằng thuốc mỡ. Vết nứt mạn tính có thể được điều trị với cách giãn nở hậu môn bằng tay.

Giãn nở hậu môn: Kĩ thuật

  1. Trước khi thực hiện, làm rỗng trực tràng bằng thụt. Gây mê toàn thân cho bệnh nhân mà không giãn cơ bắp, sử dụng trương lực trong cơ thắt hậu môn để đánh giá mức độ mà cơ thắt hậu môn nên được kéo ra. Thực hiện kiểm tra bằng kĩ thuật số và sau đó là kiểm tra bằng ống soi trực tràng để xác nhận sự tồn tại của trĩ (Hình 5.76,5.77). Sự thành công của quá trình điều trị phụ thuộc rất nhiều vào sự giãn nở hậu môn tương thích tại vùng “đai bóp lại”. Điều này đạt được bằng cách dùng các ngón tay ấn nhưng để tránh làm giãn nở quá nhiều hay biến chứng khác, chỉ nên sử dụng nhiều nhất là 4 ngón tay. Không được sử dụng bất kì dụng cụ nào.
  1. Đầu tiên, cho ngón trỏ và ngón giữa của tay trái vào trong hậu môn và ấn vào thành hậu môn (Hình 5.78). Tiếp theo, giãn nở hậu môn bằng cách đưa ngón trỏ của tay phải vào và ấn vào thành hậu môn theo hướng đối diện với hai ngón tay kia (Hình 5.79). Cho ngón tay giữa của tay phải vào và nhắc lại quy trình trên.
  1. Cuối cùng, đưa bông hoặc gạc thấm chất khử khuẩn không trôi hoặc dung dịch muối đẳng trương vào hậu môn và vắt ra hoặc một miếng gạc tẩm thuốc mỡ. Để một đầu bông hoặc gạc thò ra ngoài.
  1. Chỉ định dùng thuốc giảm đau cho chăm sóc hâu thủ thuật. Cho bệnh nhân dùng thuốc nhuận tràng loại nhẹ như paraffin lỏng (dầu khoáng) để kích thích việc thải phân mềm và to. Chỉ dẫn bệnh nhân ngồi vào nước ấm, tốt hơn là cho một chút muối trong khoảng 15-30 phút ít nhất một ngày một lần trong 14 ngày.

Biến chứng có thể là hình thành ổ tụ huyết, không kiềm chế được và sa niêm mạc. Nếu không dùng quá 4 ngón tay cho việc làm giãn nở hậu môn thì sẽ hạn chế được tối đa các biến chứng trên

Trĩ (Lòi dom)

Triệu chứng thường gặp là có cảm giác khó chịu, đau, có khi kèm chảy máu mỗi khi đaị tiện. Đau không phải lúc nào cũng là một đặc điểm quan trọng. Trĩ được phân loại trên cơ sở xem chúng có bị sa hay không, khối trĩ sa có tự giảm không hay phải can thiệp bằng tay. Cần khám trực tràng, soi trực tràng và soi đại tràng để chẩn đoán trĩ và bất kì hiện tượng nào khác có liên quan, đặc biệt là ung thư biểu mô trực tràng.

Biến chứng của trĩ là thiếu máu và chứng huyết khối.

Điều trị:

 Trường hợp nhẹ: Tránh đừng để bị táo bón bằng cách uống nhiều nước, ăn nhiều rau, tập thói quen đi cầu đều đặn. Dùng thuốc bôi tại chỗ và các loại kem có chứa corticoid, các chất chống co thắt, các chất

. Cụ thể, có thể dùng Proctolog nhét hậu môn ngày 1- 2 viên; hoặc bôi thuốc mỡ Preparation-H lên vùng bị trĩ bất cứ lúc nào có triệu chứng, 3 – 5 lần/ngày.

 Nếu trường hợp nặng hơn thì tiêm thuốc gây xơ hoặc phẫu thuật lạnh bằng chất cực lạnh như khí carbonic, nitrogen lỏng làm lạnh búi trĩ, sau vài ngày thì búi trĩ hoại tử vô trùng không đau, 3 – 6 tuần thì lành sẹo, sẹo mềm và đẹp.

 Thắt búi trĩ bằng dây thun với dụng cụ đặc biệt.

 Mổ cắt trĩ nếu là trĩ sa. Việc cắt trĩ nếu do bác sỹ không có kinh nghiệm thực hiện có thể bị biến chứng thành hẹp hậu môn. Nếu cần cắt trĩ thì đưa bệnh nhân đến bác sĩ ngoại khoa có tay nghề tốt.

Không bao giờ được thực hiện cắt trĩ hay dãn hậu môn cho bệnh nhân mang thai hoặc sau khi sinh. Dùng gạc tẩm muối ưu trương sẽ làm giảm sự khó chịu và hiện tượng trĩ sẽ được cải thiện vài tuần sau khi sinh.

Bình luận về bài viết này