GS. PTS. Nguyễn Công Khanh
Để có cơ sở giải thích đặc điểm bệnh lí trẻ em và săn sóc trẻ em, cần biết một số đặc điểm cơ bản khác với người lớn của các bộ phận cơ thể trẻ em.

DA TRẺ EM
Da trẻ mềm, mỏng, nhiều mao mạch nên dễ sây sát, dễ nhiễm khuẩn.
Khi mới đẻ, trên da có một lớp gây màu trắng xám, có tác dụng bảo vệ da, đỡ mất nhiệt, có tác dụng miễn dịch và dinh dưỡng da.
Diện tích da so với trọng lượng cơ thể lớn hơn người lớn, lớp mỡ dưới da mỏng, tuyến mồ hôi ở trẻ nhỏ chưa hoạt động, điều hòa nhiệt kém, trẻ dễ bị lạnh qúa và nóng qúa, mất nước qua da lớn.
Lớp mỡ dưới da hình thành từ tháng thứ 7 – 8 thời kì bào thai nên ở trẻ đẻ non lớp mỡ này mỏng. Trong 6 tháng đầu, lớp mỡ phát triển nhanh, bề dầy lớp mỡ dưới da lúc 3 tháng là 7 – 9 mm, 1 tuổi là 10 – 12 mm, 7 – 10 tuổi là 7mm, 11 – 15 tuổi là 8mm.
Trong thành phần mỡ dưới da có nhiều acid palmatic và stearic, ít acid oleic (acid béo không no), khi bị lạnh, trẻ nhỏ dễ bị cứng bì.
Lông to nhiều vai, lưng; trẻ đẻ non và trẻ dinh dưỡng kém có càng nhiều lông to. Tóc mềm, chưa có lõi.
| Trên da trẻ còn có chất tiên vitamin D, nhờ tia cực tím của ánh sáng mặt trời chất này chuyển thành vitamin D, phòng được bệnh còi xương, nên cho trẻ tắm nắng sớm. CÓ TRẺ EM
Co trẻ em phát triển yếu, chiếm 23% trọng lượng lúc mới đẻ và chiếm 42% trọng lượng cơ thể lúc trưởng thành.
Cơ lực yếu, phát triển không đồng đều. Các cơ lớn như đùi, vai, cánh tay trước phát triển trước, các cơ nhỏ như có lòng bàn tay, ngón tay phát triển chậm, nên trẻ dưới 6 tuổi không làm được những động tác tỉ mỉ chính xác.
Trên 15 tuổi, có phát triển mạnh.
Sợi có mảnh, thành phần nhiều nước, khi mất nước, trẻ sút cân nhanh.
| Trong những tháng đầu có hiện tượng tăng trương lực cơ sinh lí, nhất là các cơ gấp nên hai tay thường co lại. Lúc 2 – 3 tháng mới hết tăng trưởng lực có chi trên, lúc 3 – 4 tháng hết tăng trương lực co chi dưới, lúc đó vận động tay chân mới dễ dàng. XƯỞNG TRẺ EM Đặc điểm chung
Xưởng chưa phát triển đầy đủ, hầu hết còn là sụn. Qúa trình tạo thành xương, cốt hóa phát triển dần theo tuổi, đến 20 – 25 tuổi mới kết thúc. Dựa vào điểm cốt hóa có thể đánh giá được sự phát triển; ví dụ ở cổ tay: lúc 3 – 6
tháng có hai điểm cốt hóa của xương cá và xương móc, lúc 3 tuổi có điểm cốt hóa của xương tháp, lúc 4 – 6 tuổi của xương bán nguyệt và xương thang, lúc 5 – 7 tuổi của xương thuyền, lúc 10 – 13 tuổi của xương đậu.
| Thành phần xương trẻ nhỏ có ít muối khoáng, xưởng mềm, dễ bị gãy. Xương sọ
Hộp sọ trẻ em tương đối to so với kích thước cơ thể, phát triển nhanh nhất trong năm đầu tiên.
Lúc đẻ, ở hộp sọ có hai thóp: thóp trưÚc rộng mỗi chiêu 2 – 3 cm, kín vào lúc 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng. Thóp sau nhỏ, kín vào lúc 3 tháng.
Các xoang trán, xoang sàng trên 3 tuổi mới phát triển nên trẻ dưới 3 tuổi chưa bị viêm xoang.
Xương cột sống
Xương cột sống chưa cố định, lúc sơ sinh khá thẳng. Khi biết ngẩng đầu (1 – 2 tháng) trục cột sống cong về phía trước, khi biết ngồi (6 tháng) trục cột sống cong về phía sau, lúc biết đi (1 năm) trục cột sống vùng lưng cong về phía trước. Đến 7 tuổi có hai đoạn uốn cong cố định ở cổ và ngực, lúc dậy thì thêm một đoạn cong ở vùng thắt lưng.
Do cột sống lúc đầu chưa cố định, nếu cho trẻ ngồi sớm, bé nách, ngồi học không đúng tư thế, trẻ dễ bị gù và vẹo cột sống. Xương lồng ngực
Ở trẻ nhỏ, khung lồng ngực có hình trụ tương đối, đường kính trước – sau bằng đường kính ngang. Càng lớn, lồng ngực càng dẹt dần, đường kính ngang chuyển dần thành lớn hơn đường kính trước – sau, xương sườn chếch dốc nghiêng.
Do cấu trúc như vậy nên lồng ngực trẻ nhỏ di động kém, phải sử dụng co hoành nhiều để thỏ, dễ khó thở khi bị tổn thương.
Xương chi
Lúc mới đẻ xương chi hơi cong, từ khi 1 – 2 tháng và sau đó xương chi thẳng dần, gương chi mềm, dễ bị gẫy, cong. Xương chậu
Giữa trẻ trai và gái lúc 6 – 7 tuổi chưa có sự khác biệt về khung chậu. Sau đó khung chậu trẻ gái phát triển hơn, tiếp tục phát triển đến lúc 20 – 21 tuổi. Do đó, nếu phụ nữ đẻ sớm trước 22 tuổi sẽ có thể bị đẻ khó.